Trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) về cơ bản được hiểu là việc doanh nghiệp thực
hiện các sáng kiến vì một xã phát triển bền vững bên cạnh việc tạo ra lợi nhuận.
Theo
như tác giả cuốn “CSR 2.0 - kỷ nguyên của trách nhiệm tiến sĩ Wanney Visser cho biết CSR – trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp được ra đời từ các nước phát triển. Khi mà biểu hiện đầu tiên của CSR
chính là các hoạt động từ thiện đã tồn tại rất lâu trong lịch sử nhân loại. Cũng
theo tác giả, lịch sử CSR đã phát triển từ CSR 1.0 lên CSR 2.0.
Cấp
độ 1 hay còn gọi là “thời kỳ của sự tham lam”, bắt đầu từ năm 1972 và kết thúc
năm 2008 cùng sự sụp đổ của các tập đoàn lớn như Enron năm 2001, Lehman năm
2007 gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Đây là giai đoạn
doanh nghiệp thực hiện CSR nhằm tối đa hóa lợi nhuận bất chấp mọi tác hại gây
ra cho cộng đồng xã hội.
Qua
các Công ty đa quốc gia mà CSR đã du nhập vào Việt Nam từ đó. CSR cho đến nay
không còn quá mới ở Việt Nam nhưng cách Doanh Nghiệp hiện nay phần lớn vẫn chỉ
dừng lại ở cấp độ làm từ thiện.
Cấp
độ 2 bắt đầu từ cuối 1889 và phát triển cực thịnh vào năm 2008 gắn với dấu mốc
nhà tài phiệt đồng thời cũng là nhà đạo đức học Warrant Buffet tài trợ 31 tỉ
USD cho quỹ Melinda Gates Foundation. Lịch sử ghi nhận chủ nghĩa nhân đạo xuất
hiện khoảng 2.5000 năm trước công nguyên.
Chủ
nghĩa nhân đạo có nguồn gốc lâu đời ở Châu Âu mà sau này còn ghi lại nhiều dấu ấn
của xã hội Mỹ với những cái tên như Rockefeller, Bill Gates. Các chương trình
CSR thiện nguyện được ra đời do các doanh nghiệp trích hoặc đầu tư tiền ủng hộ
cộng đồng để giải quyết một số vấn đề xã hội. Thực hiện CSR theo cách này có thể
nhất thời giúp đỡ các nhóm cộng đồng tổn thương, nhưng lâu dài không góp phần
xây dựng năng lực cho họ khi đối mặt với khó khăn, thử thách.
CSR
marketing xã hội cấp độ 3 gắn liền với chủ nghĩa tiêu dùng xuất hiện ở Mỹ những
năm 1960. Một điều đáng ghi nhớ là các chiến dịch CSR giai đoạn này rất phổ biến
ở các ngành nghề sản xuất và dịch vụ như hóa chất, thuốc lá, bia rượu, khí đốt,
và tài chính. Bởi trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, các ngành nghề
này đã gây ra những hệ lụy trực tiếp đối với người tiêu dùng và xã hội.
Cấp
độ cuối cùng của CSR 1.0 được gắn chặt chẽ với chức năng quản lý. Chúng được thể
chế hóa thành những bộ quy tắc ứng xử. Chứng chỉ ISO, Labour Codes, là những ví
dụ của các nguyên tắc CSR liên quan đến quy trình quản lý chất lượng và người
lao động đã được thể chế hóa.
CSR
giai đoạn này được giám sát bởi các tổ chức và báo cáo quốc tế như Ngân hàng Thế
giới, quỹ phòng chống tham nhũng của Hội đồng Bảo an Liên hợp Quốc, tuyên bố chung
về phát triển bền vững Johannesburg... Tựu chung lại, doanh nghiệp thực hiện
CSR một cách hệ thống, bài bản, có chế tài giám sát.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét